Thứ Ba, 24 tháng 9, 2013

Động vật kích thước nhỏ cảm nhận thời gian trôi chậm hơn

Động vật kích thước cơ thể nhỏ có tỷ lệ trao đổi chất mạnh hơn, cảm nhận thời gian chậm hơn so với con người, khiến chúng tiếp nhận được thêm thông tin trong mỗi giây.

2-3700-1379991873.jpg
Chim ruồi cảm nhận thời gian trôi chậm hơn so với con người. Ảnh: Flickr
Chúng ta thường cho rằng thời gian là giống nhau đối với tất cả mọi loài, nhưng theo nghiên cứu gần đây được công bố trên tạp chí Animal Behaviour, vấn đề cảm nhận thời gian nhanh chậm khác nhau tùy thuộc vào từng loài sinh vật.
Các loài động vật nhỏ có tỷ lệ trao đổi chất nhanh (ví dụ họ hàng nhà ruồi hay chim ruồi) cảm nhận được thêm thông tin trong một đơn vị thời gian, điều này có nghĩa là chúng trải nghiệm hành động chậm hơn so với những loài có kích thước cơ thể lớn, trao đổi chất chậm hơn, bao gồm con người. Nghiên cứu trên được tiến hành bởi các nhà khoa học từ trường Trinity College Dublin của Ireland, trang MNN cho hay.
Thậm chí sự thay đổi này còn diễn ra trong cùng một loài. Tác giả của công trình nghiên cứu cho thấy, đối với con người, một số vận động viên có thể nâng cao khả năng đôi mắt của họ để theo dõi sự chuyển động của một quả bóng trong suốt trận thi đấu ở tốc độ cao. Nhận thức về thời gian cũng thay đổi một cách tinh tế theo tuổi tác, điều này giúp giải thích lý do tại sao trẻ em cảm nhận thời gian dường như chậm hơn so với người lớn.
"Theo kết quả nghiên cứu, vấn đề nhận thức thời gian là một khía cạnh chưa từng được biết đến, chúng tôi bắt đầu hiểu ra rằng, có một mức độ chi tiết về thế giới chỉ một số loài động vật có thể cảm nhận được, điều này thật hấp dẫn vì cách các loài động vật cảm nhận thế giới khác chúng ta”, Andrew Jackson, đồng tác giả nghiên cứu, nói.
Jackson và đồng sự đã chứng minh điều này với một hiện tượng gọi là “tần số nhấp nháy kết hợp” dựa trên tốc tốc độ tối đa của đèn nhấp nháy mà một con vật có thể nhìn thấy trước khi ánh đèn trông có vẻ ổn định, tức là ánh sáng liên tục giống như nguyên lý của chiếc TV. Đây là lý do tại sao con chó gặp khó khăn khi nhìn hình ảnh trên truyền hình, các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng đôi mắt của chó có tốc độ ghi nhận hình ảnh cao hơn so với màn hình TV, chúng cảm nhận màu sắc ít hơn con người.
Nghiên cứu được thực hiện trên 30 loài khác nhau từ động vật gặm nhấm, thằn lằn, chim bồ câu cho đến chó, mèo và rùa biển. Tác giả nhận thấy đối với nhóm động vật có kích thước cơ thể lớn, chúng cảm nhận thời gian trôi qua nhanh hơn, trong khi nhóm động vật nhỏ có xu hướng cảm nhận chuyển động chậm lại, chúng ta không nên đánh giá thấp não của côn trùng và động vật có xương sống bé nhỏ.
“Động vật có thể sử dụng sự khác nhau trong quá trình nhận thức thời gian để gửi tín hiệu bí mật, nhiều loài như đom đóm và một số động vật biển sâu giao tiếp thông qua đèn nhấp nháy, các loài động vật ăn thịt không thể giải mã các tín hiệu nếu hệ thống thị giác của chúng không đủ nhanh, đây là một kênh bí mật của thông tin liên lạc”, Luke McNally, nhà sinh vật học tham gia nghiên cứu, cho biết.
 Lê Hùng

Thứ Sáu, 30 tháng 8, 2013

Súp lơ có thể ngăn ngừa viêm xương khớp

Các nhà nghiên cứu ở Anh phát hiện ra chất sulforaphane trong súp lơ xanh có khả năng làm chậm sự hủy hoại sụn ở các khớp xương.
Nghiên cứu trên do Hội đồng Nghiên cứu Khoa học Y tế và các trung tâm nghiên cứu sức khỏe uy tín tại Anh thực hiện.
Súp lơ có thể ngăn ngừa viêm xương khớp
Ăn súp lơ xanh có thể ngăn ngừa viêm xương khớp. (Ảnh: biquyetlamdep.net)
"Các kết nghiên cứu lần này rất hứa hẹn. Chúng tôi đã tiến hành trên ba mô hình trong phòng thí nghiệm, và thử nghiệm trong các tế bào sụn, mô của chuột để có kết quả như ý muốn. Sau đó chúng tôi muốn thể hiện kết quả công trình nghiên cứu này ở người", Ian Clark, giáo sư sinh học cơ xương khớp tại Đại học Norwich cho biết.
Những nghiên cứu trước đây đã phát hiện sulforaphane có đặc tính chống ung thư và chống viêm. Nhưng đây là nghiên cứu lớn đầu tiên cho thấy ảnh hưởng của nó đối với sức khỏe, Guardian cho hay.
Hơn 8,5 triệu người ở Anh mắc bệnh viêm xương khớp, một bệnh thoái hóa ảnh hưởng đến bàn tay, bàn chân, xương sống, hông và đầu gối. Theo dự báo số lượng người điều trị bệnh này sẽ tăng mạnh vào năm 2035.
"Đến nay các nghiên cứu không cho thấy thức ăn hoặc chế độ ăn uống nào có thể làm giảm sự tiến triển của viêm xương khớp.Vì vậy nếu những phát hiện này được áp dụng ở người, nó sẽ là một bước đột phá", Alan Silman, giám đốc y khoa Trung tâm Nghiên cứu Viêm khớp của Anh, nói.
                                                                                                                             Nguồn: Khoahoc.com.vn

Thứ Năm, 31 tháng 1, 2013

NHỮNG CON ĐƯỜNG CỦA ÁNH SÁNG

Vật lý và siêu hình học của ánh sáng và bóng tối
* Cuộc tranh luận về bản chất ánh sáng của ánh sáng . Ánh sáng là hạt như newton quả quyết, hay là sóng như Huygens, young và Fresnel khẳng định?. Vào thế kỷ thứ 18 Young đã chứng minh rằng sự thêm ánh sáng vào ánh sáng có thể dẫn đến bóng tối ( vân tối trong giao thoa sóng ánh sáng) điều này chỉ có thể giải thích được nếu ánh sáng có bản chất sóng. Faraday và Maxwell, ngợi ca sự kết hợp giữa điện và từ và đã chứng tỏ rằng các sóng điện từ cũng không khác gì các sóng ánh sáng. Vào thế kỷ 20, Einstein bằng cách tự vấn thế giới có thể sẽ trình hiện như thế nào trước mắt mình khi nó cũng chuyển động nhanh như một hạt ánh sáng đã tạo ra một cuộc cách mạng trong các quan điểm về thời gian và không gian, và đã thống nhất vật chất và năng lượng bằng thuyết tương đối hẹp. để giải thích hành trang của một electron phát ra từ bề mặt của một kin loại dưới tác dụng của ánh sáng mà người ta gọi là "hiệu ứng quang điện" Einstein đã đưa trở lại quan niện ánh sáng là hạt, nhưng gắn cho hạt là một "lượng tử năng lượng " ý tưởng đã được planck đưa ra trước đó.
* Vậy ánh sáng là sóng hay là hạt? Bỏh và các cộng sự của ông người đã sáng lập ra môn vật lý mới gọi là "cơ học lượng tử" tuyên bố rằng ánh sáng vừa là sóng vừa là hạt, nó xuất hiện như một sóng howacj một hạt tùy theo dụng cu đo mà ta sử dụng (còn theo mình được biết thì ánh sáng duy chuyển tương tự như lan truyền sóng trong nước các hạt ánh sáng có lẽ là những hạt vật chất tối dao động xung quanh một điểm có định giấng như các electron dao động trong quá trình dẫn điện, các hạt vật chất tối chiếm 95% khối lượng vật chất của vũ trụ và con người vẫn chưa hiểu được bản chất thật sự của các hạt này, trong khi chúng tồn tai mọi nơi trong vũ trụ xung quanh chúng ta mà ta không có cách nào nhận biết chính các hạt này tạo nên sự lan truyền của ánh sáng vì thế tại sao ta lại nhận thấy ánh sáng lại vừa có tính sóng vừa có tính hạt)
* mắt người chỉ chứa 3 loại tế bào thị giác nhạy cảm vớ 3 loại màu đỏ, xanh, tím nhưng nhờ não con người có thể tri giác vài trăm sắc thái và màu khác nhau.
* Thời gian chậm lại ở vận tốc cao (thuyết tương đối hẹp)
* Thuyết tương đối rộng (công bố 1915) dạy chúng ta rằng vật chất quyết định hình học của không gian và đến lược mình hình học này quyết định đường đi của ánh sáng. Ánh sáng đi từ điểm này đến điểm khác theo con đương ngắn nhất, trong một không gian phẳng con đường này là đường thẳng nhưng trong một không gian bị vật chất bẻ cong thì nó là một đường cong ta nói rằng đương đi của ánh sáng tuân theo nguyên tắc tiết kiệm nhất,
* Ta biết mọi thiên thể đều bẻ cong không gian quanh nó và ánh sáng đi gần nó sẽ bị lệch hướng, ánh sáng sẽ không đi theo một đường thẳng nữa mà đi theo một đường viền uốn cong của cấu trúc không gian và thời gian do vất chất nhào nặng nên.
* Theo Newton quỹ đạo elip của mặt trăng quay quanh trái đất bắt nguồn từ lực hấp dẫn mà trái đất tác dụng lên mặt trăng và lực này được truyền bởi ete. Einstein đã loại bỏ hoàn toàn lực và ete này, sở dĩ Mặt trăng đi theo quỷ đạo elip bởi đó là con đường ngắn nhất (mà người ta gọi là "đường trắc địa") trong không gian bị khối lượng trái đất uốn cong.

Thứ Sáu, 8 tháng 6, 2012

Khả năng hủy hoại của ánh nắng

Một bức ảnh mới, ấn tượng về khuôn mặt của một tài xế xe tải đã cung cấp bằng chứng sống động về mức độ hủy hoại mà Mặt trời có thể gây ra đối với con người chúng ta. Bức ảnh được đăng tải trên tạp chí New England Journal of Medicine đã cho thấy cái mà các chuyên gia da liễu gọi là thoái hóa da do tác hại của ánh nắng Mặt trời - một biểu hiện phổ biến của sự lão hóa. Điểm đặc biệt về bức ảnh là, sự hủy hoại chỉ tấn công một bên mặt của nhân vật chính - một tài xế xe tải về hưu. Tác hại của ánh nắng rất rõ ở phía bên trái mặt tài xế xe tải 69 tuổi. (Ảnh: Live Science) “Phần lớn thời gian trong cuộc đời mình, ông ấy làm nghề lái xe tải. Chúng tôi cho rằng, việc tiếp xúc với ánh nắng ở một bên mặt là nguyên nhân gây ra tổn thương này”, chuyên gia da liễu Jennifer Gordon đến từ trường Đại học Northwestern cho biết trên trang Live science. Theo bà Gordon, các tia cực tím A (UVA) từ Mặt trời có thể dễ dàng xuyên qua kính cửa sổ và thậm chí quần áo mỏng. Chúng sau đó sẽ gây tổn thương sâu tới da, ảnh hưởng tới các tế bào liên kết ví dụ như: collagen và elastin. Đó chính là lúc bạn phải hứng chịu tác động của sự lão hóa: các nếp nhăn, mụn, nám,… trên da. Bệnh nhân trong bức ảnh đã tới gặp bà Gordon và các cộng sự sau khi đã quá mệt mỏi trước việc luôn bị các cháu hỏi đã xảy ra chuyện gì với một bên mặt của ông. Cho tới hiện tại, người đàn ông này không có bất kỳ biểu hiện nào của bệnh ung thư da mặc dù ông vẫn cần được theo dõi kỹ lưỡng trong tương lai. Bà Gordon nói, cách tốt nhất để ngăn chặn ung thư da cũng như lão hóa sớm là dùng kem chống nắng. Viện da liễu Mỹ khuyên mọi người nên sử dụng các loại kem chống nắng có chỉ số SPF ít nhất 30 và có khả năng bảo vệ diện rộng, chống cả tia cực tím A (UVA) và tia cực tím B (UVB) - nguyên nhân chính gây sạm nắng. Ngay cả trong một ngày âm u, tới 80% các tia cực tím từ Mặt trời có thể xuyên qua các đám mây. Do đó, Viện da liễu Mỹ cũng đề xuất mọi người nên bôi kem chống nắng trên mọi vùng da hở mỗi ngày, kể cả trong mùa đông. “Điều lớn nhất mà tôi học được sau tất cả những chuyện này là chúng ta không bao giờ an toàn trước mặt trời”, bà Gordon kết luận.

Thứ Hai, 12 tháng 3, 2012

MOVING FORWARD

Chủ Nhật, 30 tháng 5, 2010

LIÊN KẾT HÓA HỌC

1. Liên kết Van Der Waals.

a. Định nghĩa: Giữa các phân tử, cho dù đã bão hòa hóa trị, luôn luôn tồn tại một tương tác tĩnh điện yếu được gọi là lien kết Van Der Waals.
b. Bản chất của liên kết Van Der Waals gồm 3 tương tác chính.
- Tương tác định hướng (thường trực): xuất hiện giữa các phân tử phân cực. các phân tử phân cực sẽ hút lẫn nhau bằng các cực trái dấu của các phân tử này. Tương tác này làm cho các phân tử sắp xếp xác định với nhau.
- Tương tác cảm ứng (tạm thời): xuất hiện giữa các phân tử có cực và không có cực. phân tử có cực sẽ làm phân cực tạm thời các phân tử không phân cực và tạo lực hút lẫn nhau giữa các cực trái dấu của 2 phân tử này.
- Tương tác khuếch tán (liên tục): xuất hiện nhờ lưỡng cực tạm thời giữa các phân tử dù có cực hay không. Các lưỡng cực tạm thời luôn xuất hiện, biến mất và tạo ra tương tác cảm ứng khiến cho các phân tử hút lẫn nhau.
c. Độ mạnh của liên kết van der waals
- Tương tác khuếch tán giữ vai trò quan trọng đối với mọi phân tử và càng mạnh khi thể tích V của phân tử càng lớn, hay nói cách khác khi khối lượng phân tử m càng cao.
- Tương tác định hướng giữ vai trò quyết định khi phân tử phân cực và càng mạnh khi phân tử phân cực càng mạnh.
- Tương tác cảm ứng thường có cường độ rất yếu.
- Một nữa khoảng cách cân bằng ngắn nhất giữa 2 phân tử này được gọi là bán kính Vam Der Waals của phân tử.
d. Tính chất của liên kết Van Der Waals.
- Tính bất bão hòa tương tác Van Der Waals là một tương tác yeeuscos năng lượng liên kết yếu <40kJ/mol (liên kết hidro H…O khoảng (23kJ/mol(từ 8-40kJ/mol), liên kết O-H khoảng 470kJ/mol, liên kết C-C khoảng 348kJ/mol).
- Lực liên kết giảm nhanh khi khoảng cách giữa các phân tử tăng lên
e. Liên kết Van Der Waals dùng để giải thích.
- Hiện tượng hóa lỏng đông đặc của các khí trơ, và các hợp chất bão hòa hóa trị.
- Hiện tượng hấp thụ và hập phụ của các chất lỏng và chất khí…
D. NOTE
Lực Van der Waals là một loại lực phân tử, sinh ra bởi sự phân cực của các phân tử thành các lưỡng cực điện.
Lực Van der Waals dễ quan sát thấy với các khí hiếm. Lực Van der Waals tham gia vào một số hiện tượng như mở rộng vạch phổ dưới áp suất (Mở rộng vạch phổ van der Waals), thay đổi phương trình trạng thái khí lý tưởng thành phương trình Van der Waals.
Lực van der Waals giúp chân của một số loài bò sát có thể bám chắc trên các bề mặt dựng đứng . Ứng dụng lực này trên các băng dính có thể làm tăng khả năng kết dính của băng

Thứ Bảy, 29 tháng 5, 2010

THỰC VẬT HỌC

• Ngành thực vật hạt kín (Angiospermophyta-thực vật có hoa), cây có hạt được bảo vệ bên trong vách bầu tạo thành quả, xylem có mạch và quản bào, phloem có ống rây và tế bào kèm. Thế hệ bào tử ưu thế, bào tử khác loại, sinh sản hữu tính nhờ hoa, thể giao tử tiêu giảm, thụ tinh không cần có nước của môi trường ngoài.

I. Lớp: Một lá mầm (Đơn tử diệp - Monocotyledoneae)
- Phôi có một lá mầm, lá có gân song song (hay hình cung), bó mạch rải rác trong thân, ít có hiện tượng dầy thứ sinh (không có vùng phân sinh libe-mộc)
- Các mảnh bao hoa giống nhau (lá và đài không phân biệt), các phần của hoa thường là bội số của 3, thường là rễ chùm, nhiều loại thụ phấn nhờ gió.
- Thực vật một lá mầm bao gồm thảo, loa kèn, phong lan, cọ, tre… Dù cho có ít loài hơn so với hai lá mầm, thực vật một lá mầm là một nhóm tiến hoá và ưu thế ở các vùng đồng cỏ thế giới. Các loài như lúa mạch, yến mạch, lúa mì và ngô là những cây ngũ cốc quan trọng.

II. Lớp: hai lá mầm (Song tử diệp - Dicotyledoneae)
- Phôi có hai lá mầm, lá có gân hình mạng, bó mạch xếp thành vòng trong thân, thường có sự sinh trưởng thứ sinh (có vùng phân sinh libe-mộc.

- Bao hoa gồm lá đài và cánh hoa, các phần của hoa là bội số của 5,(đôi khi 4) thường dạng rễ cọc, nhiều loài thụ phấn nhờ côn trùng.
- Thực vật hai lá mầm là lớp lớn hơn của loài thực vật hạt kín, gồm những cây gỗ, cây bụi có độ dầy thứ cấp. Phần lớn những cây trồng cho quả, rau ăn và hạt đều thuộc hai lá mầm và một số loài cây gỗ như sồi và cây óc chó được dùng để lấy gỗ xây dựng.
 Thực vật có hoa là nhóm phong phú nhất trong số thực vật ở cạn. Từ khi xuất hiện lần đầu vào giữa Kỉ Crêta vào khoảng 110 triệu năm về trước, chúng thay thế dần thực vật Hạt trần là thảm thực vật ưu thế ở phần lớn các nơi, ngoại trừ miền ôn đới Bắc. Lớp một lá mầm và lớp hai lá mầm có những sự chuyển hoá riêng và thực vật một lá mầm không thể xem là nguyên thuỷ hơn thực vật hai lá mầm.

III. Đặc tính chung của thân
- Bó mộc có sự chuyên hóa li tâm
- Bó libe xếp chồng trên bó mọc
- Đối xứng qua một trục
- Có tầng sinh bột (tương đương với nội bì ở rễ-phân biệt vùng vỏ và vùng trụ trung tâm)
- Có biểu bì có khẩu

1. Đặc tính riêng của thân Đơn tử diệp.

- Không phân biệt vỏ và trụ trung tâm.
- Các bó libe-mộc xếp trên nhiều vòng đồng tâm, càng vào trong số bó càng lớn và còn ít đi
- Bó mộc có khuynh hướng bao lấy bố libe (chuyên hóa chu vi)
- Không có vùng phân sinh libe-mộc giữa bó libe và bó mộc.
2. Đặc tính riêng của thân song tử diệp hậu lập.

a. Có sự hiện diện của 1 hoặc 2 sinh mô hậu lập.
- Vùng phân sinh libe-mộc giữa bó libe I và mộc I đã hoạt động cho ra phía ngoài là libe II và bên trong là mộc II (dị mộc)
- Có thể có them tầng bì sinh xuất hiện ở vùng chu luân hoạt động cho ra ngoài là sube và bên trong là nhu bì.

b. Note: Dị mộc là đặc trưng của song tử diệp gồm 4 đặc diểm sau: Có NHU mô mộc II, Tia mộc, Sợi mộc, Tế bào lộn xộn ( suy ra đó là mạch mộc II)
- Xylem (mộc) dẫn truyền nước và khoáng chất từ rễ đến lá. phloem (libe) dẫn truyền chất dinh dưỡng hữu cơ đến các bộ phận khác nhau đặc biệt từ lá đến rễ.
- Sinh trưỡng sơ cấp: diễn ra ở mô phân sinh chop đỉnh ở đỉnh ngọn chồi (hay rễ) cây làm chồi ( hay rễ) dài ra.
- Sinh trưởng thứ cấp: bắt đầu từ sự phân chia tế bào ở mô phân sinh ( vd; mô phân sinh libe-mộc) làm tăng chu vi (to ra)
IV. Đặc tính chung của rễ
- Bó mộc có sự chuyên hóa hướng tâm
- Bó libe nằm xen kẻ bó mộc
- Đối xứng qua một trục

V. Đặc điểm lá Đơn tử diệp
- Đối xứng qua một mặt phẳng
- Cơ cấu đồng diện: biểu bì trên và dưới đều có khẩu và có cutin dầy như nhau, một loại lục mô.
- Bó mộc nằm trên bó libe
- Không có vùng phân sinh libe mộc giữa bó libe và bó mộc.
- Trên phẫu thức ngang, những bó libe-mộc bị cắt ngang => Gân song hành

VI. Đặc điểm lá Song tử diệp.
- Đối xứng qua một mặt phẳng.
- Cơ cấu dị diện: biểu bì trên có cutin dày, rất ít khẩu. biểu bì dưới có cutin mỏng, nhiều khẩu, hai loại lục mô, lục mô rào ở mặt trên và lục mô khuyết ở mặt dưới phiến lá.
- Bó mộc nằm trên bó libe.
- Có vùng phân sinh libe mộc giữa bó libe và bó mộc.
- Trên phẩu thức cát ngang, có một gân chính lớn và nhiều gân phụ nhỏ bị cắt ngang cùng một số gân phụ bị cắt dọc => gân lông chim.
VII. NOTE.
1. Các loại rễ.
- Rễ cọc: rễ cái phát triển bình thường mang nhiều rễ con.
- Rễ trụ (rễ củ): rễ cái chứa trử liệu phù to lên thành củ nên gọi là rễ củ
- Rễ chùm: rễ cái ngưng tăng trưởng sớm hay tự thiêu hủy và hình thành một hệ rễ gồm nhiều rễ nhỏ bằng nhau, không phân biệt rế cái hay rễ con.
- Rễ bất định: rễ đặc biệt không do rễ mầm tạo ra, mọc từ thân hoặc lá.